Thời hạn để chấp nhận chào hàng trong mua bán hàng hóa quốc tế do người chào hàng quy định bằng điện thoại thì bắt đầu tính từ thời điểm nào?
- Thời hạn để chấp nhận chào hàng trong mua bán hàng hóa quốc tế do người chào hàng quy định bằng điện thoại thì bắt đầu tính từ thời điểm nào?
- Trong mua bán hàng hóa quốc tế thì người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng có thể thực hiện bằng hành vi không?
- Trong mua bán hàng hóa quốc tế một thông báo chấp nhận chào hàng được coi là "tới nơi" người được chào hàng khi nào?
Thời hạn để chấp nhận chào hàng trong mua bán hàng hóa quốc tế do người chào hàng quy định bằng điện thoại thì bắt đầu tính từ thời điểm nào?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 20 Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 quy định như sau:
1. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy định trong điện tín hay thư bắt đầu tính từ lúc bức điện được giao để gửi đi hoặc vào ngày ghi trên thư hoặc nếu ngày đó không có thì tính từ ngày bưu điện đóng dấu trên bì thư. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy định bằng điện thoại, bằng telex hoặc bằng phương tiện thông tin liên lạc khác, bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng.
2. Các ngày lễ chính thức hay ngày nghỉ việc rơi vào khoảng thời hạn được quy định để chấp nhận chào hàng không được trừ, khi tính thời hạn đó. Tuy nhiên, nếu không báo về việc chấp nhận chào hàng không thể giao tại địa chỉ của người chào hàng vào ngày cuối cùng của thời hạn quy định bởi vì ngày cuối cùng đó là ngày lễ hay ngày nghỉ việc tại nơi có trụ sở thương mại của người chào hàng, thì thời hạn chấp nhận chào hàng sẽ được kéo dài tới ngày làm việc đầu tiên kế tiếp các ngày đó.
Theo đó, thời hạn để chấp nhận chào hàng trong mua bán hàng hóa quốc tế do người chào hàng quy định bằng điện thoại thì bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng.
Mua bán hàng hóa quốc tế (Hình từ Internet)
Trong mua bán hàng hóa quốc tế thì người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng có thể thực hiện bằng hành vi không?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 18 Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 quy định như sau:
1. Một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng. Sự im lặng hoặc bất hợp tác vì không mặc nhiên có giá trị một sự chấp nhận.
2. Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không được quy định như vậy, thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao dịch, trong đó có xét đến tốc độ của các phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các tình tiết bắt buộc ngược lại.
3. Tuy nhiên nếu do hiệu lực của chào hàng hoặc do thực tiễn đã có giữa hai bên trong mối quan hệ tương hỗ hoặc tập quán thì người được chào hàng có thể chứng tỏ sự chấp thuận của mình bằng cách làm một hành vi nào đó như hành vi liên quan đến việc gửi hàng hay trả tiền chẳng hạn dù họ không thông báo cho người chào hàng thì chấp nhận chào hàng chỉ có hiệu lực từ khi những hành vi đó được thực hiện với điều kiện là những hành vi đó phải được thực hiện trong thời hạn đã quy định tại điểm trên.
Như vậy, trong mua bán hàng hóa quốc tế thì người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng có thể thực hiện bằng một lời tuyên bố hay một hành vi khác.
Theo đó người được chào hàng có thể chấp nhận chào hàng bằng hành vi thể hiện sự đồng ý chứ không bắt buộc phải là lời nói. Sự im lặng hoặc bất hợp tác vì không mặc nhiên có giá trị một sự chấp nhận.
Trong mua bán hàng hóa quốc tế một thông báo chấp nhận chào hàng được coi là "tới nơi" người được chào hàng khi nào?
Căn cứ theo Điều 24 Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 quy định như sau:
Theo tinh thần của Phần II Công ước này, một chào hàng, một thông báo chấp nhận chào hàng hoặc bất cứ một sự thể hiện ý chí nào cũng được coi là "tới nơi" người được chào hàng khi được thông tin bằng lời nói với người này, hoặc được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người được chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nếu họ không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu chính thì gửi tới nơi thường trú của họ.
Như vậy, trong mua bán hàng hóa quốc tế một thông báo chấp nhận chào hàng được coi là "tới nơi" người được chào hàng khi được thông tin bằng lời nói với người này, hoặc được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người được chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nếu họ không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu chính thì gửi tới nơi thường trú của họ.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.