Đi xem phim dùng điện thoại quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
- Đi xem phim nhưng có hành vi quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác thì có vi phạm pháp luật hay không?
- Hành vi quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác sẽ bị xử phạt như thế nào?
- Đi xem phim dùng điện thoại quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Đi xem phim nhưng có hành vi quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác thì có vi phạm pháp luật hay không?
Tại khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 định nghĩa như sau: Sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử.
Căn cứ khoản 6 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định hành vi xâm phạm quyền tác giả như sau:
"1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2. Mạo danh tác giả.
3. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
4. Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.
5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
6. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này.
..."
Và khoản 5 Điều 35 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định hành vi xâm phạm các quyền liên quan như sau:
"1. Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
2. Mạo danh người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
3. Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
4. Sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào đối với cuộc biểu diễn gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
5. Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
6. Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
..."
Theo đó, hành vi quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác được xem là hành vi sao chép xâm phạm đến quyền tác giả và các quyền liên quan.
Đi xem phim dùng điện thoại quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Hành vi quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác sẽ bị xử phạt như thế nào?
Theo Điều 27 Nghị định 131/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 3 Nghị định 28/2017/NĐ-CP thì hành vi xâm phạm quyền sao chép bản ghi âm, ghi hình như sau:
"1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi sao chép bản ghi âm, ghi hình mà không được phép của chủ sở hữu quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc dỡ bỏ bản sao bản ghi âm, ghi hình dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này."
Theo đó, hành vi quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng. Buộc dỡ bỏ bản sao bản ghi âm, ghi hình dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Khung phạt tiền này áp dụng đối với cá nhân. Đối với cùng một hành vi vi phạm, khung phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần khung phạt tiền đối với cá nhân (Điều 2 Nghị định Nghị định 131/2013/NĐ-CP).
Đi xem phim dùng điện thoại quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Theo Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bởi điểm a khoản 52 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan như sau:
"1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
..."
Theo đó, đi xem phim dùng điện thoại quay video, phát trực tiếp bộ phim lên mạng xã hội để lưu giữ hoặc chia sẻ với người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi này được thực hiện với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, trường hợp nặng hơn thì phạt tù và các hình phạt khác.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.