Các đại biểu quốc hội có thẩm quyền tham gia, phối hợp thực hiện hoạt động hợp nhất văn bản hay không?
- Các đại biểu quốc hội có thẩm quyền tham gia thực hiện hoạt động hợp nhất văn bản hay không?
- Hoạt động hợp nhất văn bản được thực hiện dựa trên nguyên tắc nào?
- Sau khi hợp nhất văn bản, việc đăng tải văn bản hợp nhất được quy định ra sao?
- Trường hợp có sai sót trong văn bản hợp nhất thì ai sẽ xử lý?
Các đại biểu quốc hội có thẩm quyền tham gia thực hiện hoạt động hợp nhất văn bản hay không?
Trước hết cần hiểu rõ hợp nhất văn bản và văn bản hợp nhất là gì. Căn cứ Điều 2 Pháp lệnh 01/2012/UBTVQH13 hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật quy định như sau:
"Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hợp nhất văn bản là việc đưa nội dung sửa đổi, bổ sung trong văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản đã được ban hành trước đó (sau đây gọi tắt là văn bản sửa đổi, bổ sung) vào văn bản được sửa đổi, bổ sung theo quy trình, kỹ thuật quy định tại Pháp lệnh này.
2. Văn bản được hợp nhất là văn bản sửa đổi, bổ sung và văn bản được sửa đổi, bổ sung.
3. Văn bản hợp nhất là văn bản được hình thành sau khi hợp nhất văn bản sửa đổi, bổ sung với văn bản được sửa đổi, bổ sung."
Theo đó, căn cứ các Điều 5, 6 và 7 Pháp lệnh 01/2012/UBTVQH13 hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, thẩm quyền hợp nhất văn bản và phối hợp thực hiện thuộc về những đối tượng sau:
- Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
- Người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
- Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
- Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Tổng Kiểm toán Nhà nước
Theo quy định trên, các đại biểu quốc hội không thuộc những đối tượng có thẩm quyền hợp nhất văn bản cũng như phối hợp trong công tác hợp nhất văn bản để xây dựng và ban hành văn bản hợp nhất.
Hợp nhất văn bản
Hoạt động hợp nhất văn bản được thực hiện dựa trên nguyên tắc nào?
Nguyên tắc hợp nhất văn bản theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh 01/2012/UBTVQH13 hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật cụ thể như sau:
- Chỉ hợp nhất văn bản do cùng một cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Việc hợp nhất văn bản không được làm thay đổi nội dung và hiệu lực của văn bản được hợp nhất.
- Tuân thủ trình tự, kỹ thuật hợp nhất văn bản.
Đồng thời, văn bản hợp nhất sau khi được xây dựng và ban hành sẽ được sử dụng chính thức trong việc áp dụng và thi hành pháp luật. (quy định tại Điều 4 Pháp lệnh)
Sau khi hợp nhất văn bản, việc đăng tải văn bản hợp nhất được quy định ra sao?
Đăng văn bản hợp nhất trên Công báo và trang thông tin điện tử theo Điều 8 Pháp lệnh 01/2012/UBTVQH13 hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật quy định như sau:
(1) Việc đăng văn bản hợp nhất trên trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan nhà nước được thực hiện như sau:
a) Văn bản hợp nhất quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này được đăng trên trang thông tin điện tử của Quốc hội;
b) Văn bản hợp nhất đối với văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được đăng trên trang thông tin điện tử của Chính phủ. Cơ quan thực hiện việc hợp nhất có trách nhiệm gửi văn bản hợp nhất cho Văn phòng Chính phủ trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ký xác thực, để đưa lên trang thông tin điện tử của Chính phủ;
c) Văn bản hợp nhất đối với văn bản quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 7 của Pháp lệnh này được đăng trên trang thông tin điện tử của cơ quan thực hiện việc hợp nhất văn bản.
(2) Văn bản hợp nhất phải được đăng đồng thời với văn bản sửa đổi, bổ sung trên cùng một số Công báo.
Cơ quan thực hiện việc hợp nhất có trách nhiệm gửi văn bản hợp nhất cho cơ quan Công báo để thực hiện việc đăng Công báo.
(3) Văn bản hợp nhất đăng trên Công báo điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan quy định tại khoản 1 Điều này được khai thác miễn phí.
Trường hợp có sai sót trong văn bản hợp nhất thì ai sẽ xử lý?
Trong trường hợp văn bản hợp nhất có sai sót, việc xử lý được thực hiện theo quy định tại Điều 9 Pháp lệnh 01/2012/UBTVQH13 hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật cụ thể như sau:
"Điều 9. Xử lý sai sót trong văn bản hợp nhất
1. Trong trường hợp do sai sót về kỹ thuật dẫn đến nội dung của văn bản hợp nhất khác với nội dung của văn bản được hợp nhất thì áp dụng các quy định của văn bản được hợp nhất.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện có sai sót trong văn bản hợp nhất gửi kiến nghị đến cơ quan thực hiện việc hợp nhất để kịp thời xử lý; trường hợp không xác định được cơ quan thực hiện việc hợp nhất thì gửi kiến nghị đến Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp thông báo ngay đến cơ quan có trách nhiệm xử lý sai sót.
3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan thực hiện việc hợp nhất phối hợp với cơ quan Công báo xử lý sai sót trong văn bản hợp nhất và thực hiện việc đính chính trên Công báo theo quy định của pháp luật về Công báo.
Văn bản hợp nhất đã được xử lý sai sót phải được đăng trên Công báo điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 8 của Pháp lệnh này."
Như vậy, đối với công tác xây dựng, ban hành, đăng tải và xử lý trong trường hợp có sai sót của văn bản hợp nhất, pháp luật hiện hành đã có những quy định cụ thể để các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện một cách thống nhất và đảm bảo đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.