Ngày cuối cùng của hạn thông báo tìm kiếm việc làm rơi vào ngày nghỉ lễ thì có được kéo dài thời hạn không?
Ngày cuối cùng của hạn thông báo tìm kiếm việc làm rơi vào ngày nghỉ lễ thì có được kéo dài thời hạn không?
Tại khoản 4 Điều 10 Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH có quy định như sau:
Thông báo về việc tìm kiếm việc làm theo quy định tại Điều 52 Luật Việc làm
...
4. Ngày người lao động thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm được ghi cụ thể trong phụ lục quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động như sau:
a) Ngày của tháng thứ nhất hưởng trợ cấp thất nghiệp là ngày nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp theo phiếu hẹn trả kết quả;
b) Từ tháng thứ hai trở đi người lao động thực hiện ngày thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày đầu tiên của tháng hưởng trợ cấp thất nghiệp.
...
Đồng thời, tại khoản 3 Điều 20 Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH có quy định như sau:
Hiệu lực thi hành
...
3. Những trường hợp tính thời hạn theo dương lịch tại Thông tư này mà ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ lễ hoặc ngày nghỉ hàng tuần thì ngày cuối cùng của thời hạn là ngày làm việc liền kề sau ngày nghỉ.
...
Như vậy, nếu ngày cuối cùng của hạn thông báo tình hình tìm kiếm việc làm rơi vào ngày nghỉ lễ thì thời hạn được kéo dài đến ngày làm việc liền kề sau ngày nghỉ đó.
Ngày cuối cùng của hạn thông báo tình hình tìm kiếm việc làm rơi vào ngày nghỉ lễ thì có được kéo dài thời hạn không? (Hình từ Internet)
Người lao động không phải trực tiếp thông báo tìm kiếm việc làm trong trường hợp nào?
Tại khoản 3 Điều 10 Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH có quy định như sau:
Thông báo về việc tìm kiếm việc làm theo quy định tại Điều 52 Luật Việc làm
...
3. Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp không phải trực tiếp thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm nếu thời gian thông báo về việc tìm kiếm việc làm nằm trong khoảng thời gian mà người lao động thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Ốm đau nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều này có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền;
b) Bị tai nạn có xác nhận của cảnh sát giao thông hoặc cơ sở y tế có thẩm quyền;
c) Bị hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
d) Cha, mẹ, vợ/chồng, con của người lao động chết; người lao động hoặc con của người lao động kết hôn có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Các trường hợp không trực tiếp đến trung tâm dịch vụ việc làm thì chậm nhất trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày cuối cùng của thời hạn thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm theo quy định, người lao động phải gửi thư bảo đảm hoặc ủy quyền cho người khác nộp bản chính hoặc bản sao có chứng thực một trong các giấy tờ theo quy định nêu trên đến trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, trường hợp gửi theo đường bưu điện thì tính theo ngày gửi ghi trên dấu bưu điện.
...
Như vậy, người lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không phải trực tiếp thông báo tìm kiếm việc làm:
- Người lao động bị ốm đau nhưng không thuộc danh mục bệnh phải điều trị dài ngày có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền;
- Bị tai nạn có xác nhận của cảnh sát giao thông hoặc cơ sở y tế có thẩm quyền;
- Bị hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Cha, mẹ, vợ/chồng, con của người lao động chết; người lao động hoặc con của người lao động kết hôn có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Lưu ý: Trong các trường hợp này, người lao động phải:
- Gửi thư bảo đảm hoặc ủy quyền nộp bản chính hoặc bản sao có chứng thực một trong các giấy tờ chứng minh các lý do trên đến trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.
- Trong 03 ngày làm việc kể từ ngày cuối cùng của thời hạn thông báo.
Trường hợp nào người lao động không phải thông báo tìm kiếm việc làm?
Tại khoản 2 Điều 10 Thông tư 28/2015/TT-BLDTBXH có quy định như sau:
Thông báo về việc tìm kiếm việc làm theo quy định tại Điều 52 Luật Việc làm
...
2. Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp không phải thực hiện thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm nếu thời gian thông báo về việc tìm kiếm việc làm nằm trong khoảng thời gian mà người lao động thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Nam từ đủ 60 tuổi trở lên, nữ từ đủ 55 tuổi trở lên;
b) Người lao động được xác định thuộc danh mục bệnh phải điều trị dài ngày có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền;
c) Nghỉ hưởng chế độ thai sản có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền. Riêng đối với trường hợp nam giới có vợ chết sau khi sinh con mà phải trực tiếp nuôi dưỡng con thì giấy tờ xác nhận là giấy khai sinh của con và giấy chứng tử của mẹ;
d) Đang tham gia khóa học nghề theo quyết định của Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và có xác nhận của cơ sở dạy nghề;
đ) Thực hiện hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 03 tháng.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày người lao động thuộc một trong các trường hợp tại các Điểm b, c, d, đ của Khoản này thì người lao động phải gửi thư bảo đảm hoặc ủy quyền cho người khác nộp giấy đề nghị không thực hiện thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm theo Mẫu số 17 ban hành kèm theo Thông tư này và kèm theo bản chính hoặc bản sao có chứng thực một trong các giấy tờ theo quy định nêu trên đến trung tâm dịch vụ việc làm nơi người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, trường hợp gửi theo đường bưu điện thì tính theo ngày gửi ghi trên dấu bưu điện. Sau khi hết thời hạn của một trong các trường hợp nêu trên, người lao động phải tiếp tục thực hiện thông báo về việc tìm kiếm việc làm theo quy định.
...
Như vậy, người lao động không phải thông báo tìm kiếm việc làm trong những trường hợp nêu trên.
Khi hết thời hạn của một trong các trường hợp này thì người lao động phải tiếp tục thực hiện việc thông báo về việc tìm kiếm việc làm theo quy định.