Chi trả khoản phí mở tài khoản ngân hàng để nhận lương theo quy định hiện nay?
Hiện nay người lao động có thể nhận lương bằng các cách nào?
Căn cứ Điều 96 Bộ luật Lao động 2019 quy định như sau:
Hình thức trả lương
1. Người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận về hình thức trả lương theo thời gian, sản phẩm hoặc khoán.
2. Lương được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng.
Trường hợp trả lương qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng thì người sử dụng lao động phải trả các loại phí liên quan đến việc mở tài khoản và chuyển tiền lương.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Theo quy định trên, người lao động sẽ thỏa thuận với người sử dụng lao động về hình thức trả lương bằng 02 cách như sau:
- Trả bằng tiền mặt.
- Trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng.
Chi trả khoản phí mở tài khoản ngân hàng để nhận lương theo quy định hiện nay? (Hình từ Internet)
Ai là người trả chi phí mở tài khoản ngân hàng theo quy định hiện nay?
Căn cứ Điều 96 Bộ luật Lao động 2019 có quy định như sau:
Hình thức trả lương
1. Người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận về hình thức trả lương theo thời gian, sản phẩm hoặc khoán.
2. Lương được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng.
Trường hợp trả lương qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng thì người sử dụng lao động phải trả các loại phí liên quan đến việc mở tài khoản và chuyển tiền lương.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Trước đó, theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Lao động 2012 (có hiệu lực từ 01/05/2013 đến 01/01/2021) quy định như sau:
Hình thức trả lương
1. Người sử dụng lao động có quyền lựa chọn hình thức trả lương theo thời gian, sản phẩm hoặc khoán. Hình thức trả lương đã chọn phải được duy trì trong một thời gian nhất định; trường hợp thay đổi hình thức trả lương, thì người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động biết trước ít nhất 10 ngày.
2. Lương được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng. Trường hợp trả qua tài khoản ngân hàng, thì người sử dụng lao động phải thỏa thuận với người lao động về các loại phí liên quan đến việc mở, duy trì tài khoản.
Như vậy, theo quy định trước đó tại Bộ luật Lao động 2012 cho phép người sử dụng lao động thỏa thuận với người lao động về việc ai là người sẽ chi trả chi phí về việc mở tài khoản ngân hàng.
Còn theo quy định hiện nay, người sử dụng lao động là người phải trả các khoản phí liên quan đến việc mở tài khoản ngân hàng cho người lao động.
Và trước đó Điều 59 Bộ luật Lao động 1994 (có hiệu lực từ 01/01/1995 đến 01/05/2013) quy định như sau:
1- Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi làm việc.
Trong trường hợp đặc biệt phải trả lương chậm, thì không được chậm quá một tháng và người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một Khoản tiền ít nhất bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời Điểm trả lương.
2- Lương được trả bằng tiền mặt. Việc trả lương một phần bằng séc hoặc ngân phiếu do Nhà nước phát hành, do hai bên thoả thuận với Điều kiện không gây thiệt hại, phiền hà cho người lao động.
So với Bộ luật Lao động 2019 và Bộ luật Lao động 2012 thì tại Bộ luật Lao động 1994 mới chỉ quy định về việc trả lương bằng tiền mặt do thời điểm đó chưa xuất hiện hình thức chuyển tiền thông qua ngân hàng.
Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động khi nào?
Căn cứ Điều 97 Bộ luật Lao động 2019 quy định như sau:
Kỳ hạn trả lương
1. Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 15 ngày phải được trả gộp một lần.
2. Người lao động hưởng lương theo tháng được trả một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần. Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ấn định vào một thời điểm có tính chu kỳ.
3. Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.
4. Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Như vậy, người sử dụng lao động phải trả lương cho người lao động là việc do hai bên thỏa thuận tuy nhiên sẽ có tính chu kỳ.
Trong trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng thời hạn được cho người lao động thì thời gian không được chậm quá 30 ngày.