Theo Điều 38 của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/10/2013 Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư quy định Chi nhánh, Công ty luật nước ngoài tại Việt Nam có quyền tạm ngưng hoạt động nhưng phải có báo cáo bằng văn bản về việc tạm ngừng và tiếp tục hoạt động với Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, cơ quan
1 . Chi nhánh, công ty luật nước ngoài có các quyền sau đây:
a) Thực hiện nghĩa vụ pháp lý về các lĩnh vực ghi trong Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động;
b) Nhận thù lao từ khách hàng;
c) Thuê luật sư nước ngoài luật sư Việt Nam, lao động nước ngoài, lao động Việt Nam;
d) Nhận người tập sự hành nghề luật sư Việt Nam
Theo Điều 81 Luật Luật sư năm 2006 quy định thì:
1. Công ty luật nước ngoài tại Việt Nam được thành lập chi nhánh ở trong và ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đăng ký hoạt động.
2. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam. Chi nhánh được thực hiện nhiệm vụ theo uỷ quyền của công ty luật nước
vụ pháp lý khác;
d) Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các luật sư hành nghề tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm;
đ) Chấp hành quy định của pháp luật Việt Nam về lao động, kế toán, thống kê và thực hiện nghĩa vụ thuế, tài chính;
e) Nhập khẩu phương tiện cần thiết cho hoạt động theo quy định của
Điều 72 Luật Luật sư năm 2006 quy định về công ty luật nước ngoài như sau:
1. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài là tổ chức hành nghề luật sư do một hoặc nhiều tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thành lập tại Việt Nam.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh là tổ chức hành nghề
hoạt động bằng miệng, không ban hành văn bản. Vì vậy, tôi yêu cầu UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh, Ban cải cách hành chính tỉnh, lãnh đạo Sở Tư pháp chỉ đạo Phòng Bổ trợ tư pháp thực hiện đúng thủ tục hành chính, không cấp Giấy đăng ký phải có văn bản trả lời nêu rõ lý do. (Nguyễn Bình An)
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên);
- Điều kiện và thủ tục tham gia hoặc rút tên khỏi danh sách luật sư thành viên (đối với công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty luật hợp danh);
- Cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành;
- Thể thức thông qua quyết định, nghị quyết; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ
Điều 14 của Nghị định 123/2013/NĐ – CP của Chính phủ ngày 14/10/2013 Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư quy định”
1.Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể chuyển đổi sang hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
nộp tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính (bộ phận một cửa) – Sở Tư pháp
Hồ sơ (01 bộ) gồm:
1. Đơn đề nghị chuyển đổi hình thức hoạt động, trong đó nêu rõ mục đích và lý do chuyển đổi.
Gồm các nội dung:
* Trước khi chuyển đổi:
- Tên tổ chức hành nghề luật sư (TCHNLS); số giấy đăng ký hoạt động, ngày cấp;
- Địa chỉ trụ sở
sơ và nộp tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính (bộ phận một cửa) – Sở Tư pháp
Hồ sơ (01 bộ) gồm:
1. Đơn đề nghị chuyển đổi hình thức hoạt động, trong đó nêu rõ mục đích và lý do chuyển đổi.
Gồm các nội dung:
* Trước khi chuyển đổi:
- Tên tổ chức hành nghề luật sư (TCHNLS); số giấy đăng ký hoạt động, ngày cấp;
- Địa chỉ
gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra nhưng thiệt hại khác ngoài những thiệt hại được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138, qua thực tiễn xét xử, có thể coi nhưng thiệt hại sau là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi trộm cắp tài sản gây ra:
- Gây
Đây là trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Việc xác định giá trị tài sản là căn cứ giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được tài sản thì
chuyên trộm cắp tài sản nhưng chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nói chung, phạm tội trộm cắp tài sản nói riêng, nhất thiết người thực hanh phải thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải
Người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Thực tiễn xét xử có những trường hợp dễ nhầm lẫn giữa người giúp sức với người thực hành. Ví dụ: A là thủ kho kthông đồng với B về việc trộm cắp tài sản trong kho do A quản lý. Chúng thống nhất kế
Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là chiếm đoạt được tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu
, đối lật với công khai trắng trợn. Tuy nhiên, lén lút không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài sản, mà trong nhiều tội phạm có dấu hiệu lén lút nhưng là để thực hiện một mục đích khác như: lẻn vào nhà người khác để đặt mìn nhằm mục đích giết hại những người trong gia đình họ, lẻn vào trong nhà phụ nữ để thực hiện hành vi hiếp dâm... Vì
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Anh trai của anh (tạm gọi là A) đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 40 triệu đồng. Căn cứ theo quy định trên, A bị truy cứu trách nhiệm hình
Anh trai cháu đã bị 3 tiền án về tội ăn cắp tài sản. Tháng 2/2012 anh cháu được tha về do giảm án. Nhưng đến tháng 04/2012 lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản người dân, không gây thương tích, không chống người thi hành công vụ. Vậy anh cháu có thể bị tù bao nhiêu năm nữa?