Năm 1997, Bố mẹ tôi có mua mảnh đất (người ta tạo lập trước năm 1993) giáp đường lớn có diện tích là 165m2. Năm 2005 khi làm sổ đỏ UBND huyện chỉ cấp QSD là 85m2 vì cho rằng phần còn lại có quy hoạch đường (42m). Đến 2007, đường này thay đổi quy hoạch giảm còn 30m. Đến 2013 bố mẹ tôi định xây nhà mới biết việc cấp sổ đỏ từ đầu không đúng nhưng
hỏi luật sư -Nếu kiện ra tòa, yếu tố không sử dụng đất lâu năm của tôi có phải là yếu tố bất lợi - Hộ lấn đất và cán bộ nhà nước khi làm sổ đỏ cho họ không mời tôi đến để xác định ranh đất thì sổ đỏ của hộ lấn chiếm có sai trong quy tình cấp sổ không ? - Việc đất tôi bị lấn chiếm, có người biết( là người đã từng chiếm dụng đất của tôi năm xưa
phải nộp thuế đất ở. Theo hướng dẫn của UBND xã gia đình tôi phải làm đơn tự nguyên trả toàn bộ diện tích đất được giao phục hóa nói trên và phải làm đơn xin được cấp quyền sử dụng đất và một đơn tự nguyện nộp lệ phí 20 triệu đồng để được cấp một suất đất ở trên tổng diện tích lô đất nói trên .Như vậy gia đình tôi phải làm gì có được cấp giấy chứng
và sổ đỏ - nhưng đã được chính phủ phê duyệt). Đang trong giai đoạn xin giấy phép xây dựng và sổ đỏ thì có đủ điều kiện để nhận tài sản đảm bảo không? Nếu không đủ điều kiện thì bị sai theo với quy định nào?
Tháng 5/2014, tôi mua một mảnh đất thổ cư tại quận Ba Đình, Hà Nội. Khi sang tên, tôi nhờ người khác làm giùm nên khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới biết trên giấy ghi sai tên của tôi. Tôi muốn đính chính lại có được không? Nếu được thì phải làm thủ tục gì và nộp hồ sơ ở đâu?
Căn cứ theo quy định tại Điều 691 Bộ luật Dân sự 2005: “Nguyên tắc chuyển quyền sử dụng đất:
1. Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác sử dụng đất được pháp luật cho phép chuyển quyền sử dụng đất mới có quyền chuyển quyền sử dụng đất. »
Như vậy, các giao dịch liên quan đến bất động sản hiện nay theo quy định của pháp luật đều phải
nhà tôi, thì được bộ phận một cửa yêu cầu tôi làm thủ tục lại từ đầu và đã hoàn thiện hồ sơ vào tháng 6/2013 (có nằm trong bảng danh sách đủ điều kiện... công khai). Đến tháng 7/2013 có nhận được công văn trả lời của văn phòng nhà đất quận yêu cầu UBND phường bổ sung biên bản xác nhận tài sản trên đất, xác định phần diện tích đã cấp sổ đỏ trên lô đất
Tôi hộ khẩu ở tỉnh ngoài đã mua nhà ở khu đô thị Mỹ Đình ở Hà Nội nhưng mới chỉ có hợp đồng mua bán nhà giữa tôi với Công ty làm chủ đầu tư dự án. Tôi hiện đang là công chức công tác tại một cơ quan hành chính nhà nước ở Hà Nội. Tôi đã chuyển về đây sinh sống được 3 tháng nhưng chưa làm thủ tục cấp sổ đỏ. Tôi có thể làm thủ tục nhập khẩu ngay
khẩu tại xã nên không làm được thủ tục cấp sổ đỏ. Vậy xin hỏi đ/c cán bộ địa chính xã trả lời đúng không? Tôi cần thủ tục pháp lý gì nữa để đủ điều kiện cấp sổ đỏ? Nay nhờ luật sư tư vấn giúp tôi để tôi có thể làm được thủ tục cấp sổ đỏ cho mảnh đất trên. Rôi xin cảm ơn!
chấp nào. Đến nay nhà nước có chính sách cấp sổ đỏ cho nhân dân thì bố tôi cũng được nhà nước kê khai và tiến hành cấp sổ đỏ nhưng trong quá trình chờ được cấp sổ đỏ bố tôi chẳng may bệnh nặng qua đời. Hiện nay gia đình tôi còn có bà nội tôi là mẹ đẻ của bố tôi,mẹ tôi,tôi và 2 đứa em nữa. Vậy kính mong luật sư giải đáp cho gia đình chúng tôi phải làm
Chào anh, chuyện là do ngày xưa bố mẹ em không chịu làm bìa đỏ nên bây giờ không biết làm,đất nhà em còn dính vào chỗ đất đang bị thế chấp nữa chớ, em ở Kontum nhưng ở huyện dakglei và bây giờ em muốn thủ tục làm bìa đỏ ở chỗ huyện em. Cảm ơn!
lãi và trả bằng giá đất bây giờ. Lý do sai diện tích là do trước đây UBND huyện cấp giấy đối với thửa đất số 441 là không đúng diện tích thực tế, cấp chồng qua đất nhà khác 2000m2 khi chứng thực hợp đồng chuyển nhượng ở xã Tư pháp xã và Cán bộ địa chính cũng không đo đạc kiểm tra thực tế vì chúng tôi mua nguyên thửa. Vậy tôi có thể khởi kiện ông Tùng
con gái. Anh Tình mang Giấy chứng sinh của cháu bé đến Ủy ban nhân dân để đăng ký khai sinh cho con. Do biết rõ về việc anh Tình và chị Duyên dù có ly hôn nhưng thực tế vẫn chung sống với nhau nên cán bộ tư pháp – hộ tịch đã vận dụng quy định tại Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP: “Trong trường hợp cán bộ tư pháp – hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn
Tại khoản 3, Điều 20 Thông tư số 86/2011/TT-BTC ngày 17/06/2011 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn ngân sách nhà nước có quy định về thanh toán vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư: “Đối với các dự án có tổng mức vốn dưới 01 tỉ đồng, việc kiểm soát, thanh toán vốn thực hiện
chính theo quy định tại Nghị định 110/2013; còn nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính mà vẫn vi phạm thì có thể bị xử lý hình sự.
Nguồn: Công ty Luật Vinabiz/ Nguoiduatin.vn
con gái. Anh Tình mang Giấy chứng sinh của cháu bé đến Uỷ ban nhân dân để đăng ký khai sinh cho con. Do biết rõ về việc anh Tình và chị Duyên dù có ly hôn nhưng thực tế vẫn chung sống với nhau nên cán bộ tư pháp - hộ tịch đã vận dụng quy định tại Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP: “Trong trường hợp cán bộ tư pháp - hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn
Luật Hôn nhân gia đình số 52/2014/QH13 ban hành ngày 19/06/2014 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định "Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Theo nội dung của Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh bổ trợ tư pháp, vực hỗ trợ tư pháp, hôn
Luật gia Nguyễn Thị Phương Anh - trả lời:
Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng được quy định tại Điều 147 Bộ luật hình sự như sau: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ