Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 qui định: Người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài có thể đăng ký kết hôn tại UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi người Việt Nam đang cư trú hoặc tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, nếu đăng ký kết hôn tại nước ngoài. Hồ sơ đăng ký kết hôn được lập thành hai bộ
Hiện nay, thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam cư trú trong nước để đăng ký kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài được quy định tại Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
Theo đó, Ủy
đã được tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong hồ sơ đăng ký kết hôn nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Điều 10. Trình tự giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam
1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, Sở Tư pháp có trách nhiệm:
a
Điều 103 Luật Hôn nhân gia đình quy định: “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài cũng phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn
Đối với trường hợp của bạn
Tại Điều 4 Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định:
"1. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, Sở Tư pháp có trách nhiệm:
a) Thực hiện phỏng vấn trực tiếp tại trụ sở Sở Tư pháp
Theo quy định tại Điều 16 của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thì việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở
Theo quy định tại Điều 103 của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam thì trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này
người khác (Điều 110);… Theo đó, hình phạt đối với các tội này có thể là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn.
Về cơ quan có thẩm quyền giải quyết, xử lý hành vi bạo lực gia đình: hiện nay pháp luật quy định khá nhiều cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết, hỗ trợ, tư vấn giúp đỡ những nạn nhận của hành vi bạo lực gia đình. Vì
đơn xin hòa giải lên Phòng LĐTBXH Quận 5, và đã được giải quyết như sau: - lần hẹn 1: công ty không đến, k có thiện chí. - lần hẹn 2: cty lên rất trễ, bên Phòng đã ghi biên bản là hòa giải không thành công rồi nhưng khi cty lên xin phép bắt đầu hòa giải, em vẫn đồng ý => đưa ra hòa giải thành công, lúc đầu Phòng LĐTBXH gia hạn 1 tuần, Nhưng cty nói
Hoài và Thương kết hôn đến nay đã gần 10 năm nhưng cuộc sống gia đình lúc nào cũng lâm vào cảnh thiếu thốn đủ đường do cả hai đều không có công ăn việc làm, Thương lại luôn ốm đau bệnh tật. Thời gian gần đây Hoài quen và “qua lại” thường xuyên với chị P nên cuộc sống gia đình giữa Hoài và Thương càng trở lên ngột ngạt. Vừa ở chỗ chị P về, nhìn
tích hay gây tổn hại sức khỏe người khác (Điều 104); tội hành hạ người khác (Điều 110);… Căn cứ vào đó, hình phạt đối với những tội này có thể là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hay là tù có thời hạn.
Về cơ quan có thẩm quyền có thể giải quyết, xử lý hành vi bạo lực gia đình: hiện nay luật pháp quy định khá nhiều cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
Tôi làm việc tại công ty A từ năm 2007. Trong khi thực hiện Hợp đồng lao động lần thứ nhất (có thời hạn 36 tháng) tôi được công ty cấp kinh phí cử đi đào tạo chuyên môn 11 tháng và được cấp chứng chỉ loại khá khi hoàn thành khóa học. Đến tháng 5/2013, do hoàn cảnh gia đình, tôi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật (vi phạm thời gian báo
tiền nuôi tụi tôi ăn học, nhưng ba tôi chỉ biết ăn nhậu, phá phách. Những lần nhậu say về thì chửi rủa, sỉ nhục kiếm cớ đánh đập mẹ. Mẹ luôn chịu đựng suốt bao nhiêu năm qua, còn rất nhiều…Tôi muốn hỏi giờ tôi muốn kiện ba về tội hành hung bạo lực gia đình và tội phỉ bán sĩ nhục người khác được không?
Hiện các địa phương đang thực hiện Luật Phòng chống bạo lực gia đình và triển khai các quy định của Chính phủ về áp dụng các biện pháp can thiệp, hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình là phụ nữ và trẻ em. Trong quá trình thực hiện chúng tôi còn lúng túng về nhận thức pháp luật, nhờ luật sư giải thích thêm về việc nạn nhân là trẻ em bị bạo lực
Tại địa phương chúng tôi có một vài gia đình thường xuyên xảy ra nạn bạo hành. Là cán bộ phụ nữ, chúng tôi đã nhiều lần góp ý đối với hai vợ chồng họ nhưng người chồng chứng nào tật ấy, cứ đi nhậu về là vợ con lại phải chịu những trận đòn khủng khiếp. Tình trạng này kéo dài đã nhiều năm, vợ con anh ta phải cam chịu, họ muốn nhờ chính quyền can
Trước đây chồng tôi thường uống rượu, về nhà gây gổ, đánh, chửi vợ con. Nhờ địa phương hỗ trợ giáo dục nên đã giảm hẳn, nhưng gần đây nhiều khi trở chứng, lầm lỳ, không nói năng, gia đình trở nên rất căng thẳng. Xin cho biết đó có phải là hành vi bạo lực gia đình (BLGĐ)?
cháu bị chấn thương ở vùng mắt và máu ra nhiều dẫn đến ngất xỉu phải đi cấp cứu. Nhưng nằm viện được 3 ngày thì mẹ cháu trốn viện về nhà do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn không thể nằm viện lâu. Ngày 10/ 10/ 2012 ba cháu lại đánh mẹ và dọa sẽ giết mẹ cháu. Để đảm bảo cho tính mạng của mình, mẹ cháu có làm đơn gửi lên chính quyền thôn để nhờ can
Hiện tôi công ty tôi có ký hợp đồng không thời hạn với NLĐ. Nay NLĐ muốn nghỉ một thời gian (3 năm) để giải quyết việc riêng, không ăn lương nhưng vẫn muốn tham gia đóng bảo hiểm. Xin Luật Sư cho biết thủ tục xin nghỉ không lương và việc đóng các khoản Bảo hiểm của NLĐ sẽ thực hiện thế nào? Công ty chúng tôi nên giải quyết các chế độ như thế
Xin chào luật sư, Tôi là Tú My. Hiện Công ty tôi có một số người lao động đủ tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đủ 20 năm đóng BHXH, HĐLĐ không xác định thời hạn. Công ty tôi không muốn tiếp tục hợp đồng với những người lao động cao tuổi này. Tuy nhiên, căn cứ Điều 36 khoản 4, và Điều 38 Bộ luật lao động thì Công ty không thể chấm dứt HĐLĐ. Điều 06 khoản