ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003.
Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
Thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn đối với trường hợp này được quy định như sau:
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của một trong hai bên thực hiện việc
, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với cán bộ
ngoài như sau :
“Điều 6. Thẩm quyền đăng ký kết hôn
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đăng ký thường trú của công dân Việt Nam, thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà ít nhất một bên định cư ở nước ngoài; trường hợp công dân Việt Nam không có hoặc chưa có đăng ký thường trú
pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định của Toà án thì thời hạn ba năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba
ngoài phải được hợp pháp hoá lãnh sự, dịch ra tiếng Việt và được chứng thực theo quy định của pháp luật.
Người đề nghị ghi chú có thể uỷ quyền cho người khác thực hiện việc ghi chú. Việc uỷ quyền phải bằng văn bản và phải được chứng thực hợp lệ. Nếu người được uỷ quyền là ông, bà, cha, mẹ, vợ/chồng, con, anh, chị, em ruột của người uỷ quyền thì
/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP.
1. Về thẩm quyền quyền đăng ký kết hôn
Theo
Hiện nay pháp luật về thi hành án dân sự đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm tra viên thi hành án dân sự. Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn về quyền của Thẩm tra viên trong việc ban hành văn bản. Cụ thể là Thẩm tra viên có quyền ký tên, đóng dấu cơ quan Thi hành án một số trường hợp như: Giấy mời, biên bản xác minh giải quyết khiếu nại, ký sao
Vào năm 2005, gia đình tôi được Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình giải quyết về quyền chia thừa kế tài sản của ông, bà. Đội Thi hành án dân sự (nay là Chi cục Thi hành án dân sự) huyện Hưng Hà đã thi hành án giao đất thừa kế cho gia đình tôi theo Bản án của Toà án, có sự chứng kiến của Uỷ ban nhân dân xã Thái Hưng. Do không hiểu biết nhiều về pháp
. Vậy, xin quý cơ quan tư vấn giúp: 1. Tôi có quyền gửi đơn lên cấp cao hơn để nhờ THA hay không (do tôi biết ông A có mối quan hệ rất rộng nên đó cũng là nguyên nhân làm việc THA chậm chạp) và tôi có thể gửi đơn tới cơ quan nào? 2. Tôi xin hỏi trong mức phí THA, có phải sẽ bao gồm 2 loại: phí thi hành án và phí xác minh tài sản không? và hai loại đó
Tại khoản 1 Điều 13 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký quản lý hộ tịch quy định: thẩm quyền đăng ký khai sinh là “Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người mẹ cư trú thực hiện việc đăng ký khai sinh”.
Trường hợp anh chị chưa có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, do vậy con khi sinh ra sẽ là con ngoài giá thú
Quyết định ủy thác thi hành án cho Chi cục Thi hành án huyện N tiếp tục thi hành khoản 100.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông V, nhưng các tài liệu trong hồ sơ ủy thác chỉ có 01 bản sao Quyết định của Tòa án. Quyết định ủy thác thi hành án chỉ căn cứ vào các Điều luật thi hành án và Quyết định của Tòa án mà không căn cứ quyết định
Tôi là bị đơn trong vụ kiện tranh chấp thừa kế là nhà đất. Hiện tại miếng đất chưa có chủ quyền. Tòa tuyên tôi phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 420.000.000 đồng. Tôi đã thỏa thuận với nguyên đơn và bên nguyên chịu nhận 400.000.000 đồng. Tuy nhiên để làm giấy xác nhận chủ quyền thì Phòng tài nguyên môi trường quận yêu cầu phải có giấy xác
trong thời gian này chị Nương và anh Phàng quay về quê để xin các giấy tờ làm thủ tục nhập khẩu và đăng ký kết hôn ở nơi hai người đang tạm trú trong Tây Nguyên. Anh Sình và chị Nương mang Giấy chứng nhận kết hôn đến Uỷ ban nhân dân xã đề nghị chính quyền thu hồi và huỷ Giấy chứng nhận kết hôn đó, để anh Sình có thể kết hôn với chị Cảnh và đăng ký khai
Anh Mồng, thường trú tại xã X đã có một đời vợ, chị vợ trước của anh mắc bệnh hiểm nghèo nên đã qua đời năm 2001 và được đăng ký khai tử tại Uỷ ban nhân dân xã X. Tháng 9 năm 2006, do muốn con cái mình có người chăm sóc nên anh Mồng quyết định kết hôn với chị Vần, thường trú tại thị trấn Y cùng trong huyện. Anh Mồng và chị Vần dự định sau khi
chính và hình thức xử phạt trong hoạt động quản lý hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp” tại Mục 3 Chương II Nghị định này, không thấy có quy định về xử phạt đối với hành vi đăng ký kết hôn nên ông Khoát có ý định đề nghị Hội đồng nhân dân xã ban hành nghị quyết cho phép Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã được quyền xử phạt hành chính đối với những trường hợp
hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định
Tôi hiện đang sống ở Hoa Kỳ, đã li dị và muốn đi thêm bước nữa. Tôi có quen với 1 công dân Việt Nam. Chúng tôi muốn làm đơn đăng ký kết hôn. Tôi đã xin đủ giấy tờ ở bên Hoa Kỳ bao gồm: Chứng nhận độc thân; Bản dịch li dị; Đơn xin đăng ký kết hôn; Lý lịch tư pháp; Giấy ủy quyền cho vợ tôi để nộp hồ sơ ở Việt Nam. Những giấy tờ trên đều có công
1. Về việc đăng ký kết hôn
Điều 12 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn như sau: “Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn”. Do đó, chồng bạn đăng ký hộ khẩu tại nhà vợ cũ và khi ly hôn mà vẫn chưa tách hộ khẩu thì về nguyên tắc, hai bạn có thể
của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
Đối chiếu với những quy định nêu trên thì việc chồng