Điều 116. Tội dâm ô với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều trẻ em;
c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm
nại) thì đối tượng phạm tội không bị xử lý hình sự.
Tuy nhiên, dù đã được bãi nại nhưng theo quy định của pháp luật thì ông B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây ra vì tội dâm ô với trẻ em không phải thuộc nhóm các tội phạm chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại (quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu trên
Công ty luật Cương Lĩnh xin trả lời câu hỏi như sau:
1. Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội dâm ô như sau:
“1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:
a) Phạm tội
Pháp luật lao động không có văn bản quy định về lương tháng 13. Do đó, có thể hiểu đây là khoản mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động.
Điều 64 Bộ luật lao động quy định, căn cứ kết quả sản xuất, kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp và mức độ hoàn thành công việc của người lao động, người sử dụng lao động thưởng cho người
Tết năm nay công ty tôi dự định thưởng tết bằng chính nước mắm mà chúng tôi đang sản xuất nên chị em công nhân rất lo lắng. Xin hỏi theo luật thì việc thưởng tết bằng nước mắm hay các sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất có được không?
“Quy định hiện hành của pháp luật lao động không có khái niệm tiền lương thứ 13. Căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, mức độ đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động sẽ tính toán lợi nhuận để thưởng cho họ. Mức thưởng cao hay thấp tùy thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, đơn vị và mức thưởng không nhất thiết
mình. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình thì cũng không cấu thành tội phạm này.
b) Hậu quả
Hậu quả của tội phạm này là hậu quả nghiêm trọng, nếu hậu quả gây ra chưa nghiêm trọng mà người phạm
độ nguy hiểm nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật.
Vì vậy, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà định tội cho phù hợp. Nếu chỉ có hành vi ngược đãi thì định tội là ngược đãi, nếu chỉ có hành vi hành hạ thì định tội là hành hạ, nếu có cả hai hành vi ngược đãi và hành hạ thì định tội là ngược đãi và hành hạ mà không dùng
phân chia tài sản chung. Việc đổi tài sản hoặc không nhận tài sản để "chắc suất" nuôi con tuy không trái với quy định của pháp luật, nhưng xem ra giải pháp này "không ổn", vì luật quy định trong trường hợp cần thiết, vì lợi ích của con người cha có quyền xin thay đổi người nuôi con. Và tòa án có thể quyết định cho thay đổi người nuôi con trong
Trường hợp của bạn thuộc nội dung quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình 2014, theo đó, trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu về con và tài sản thì được giải quyết theo quy định của Luật này. Mặt khác, theo nội dung bạn trình bày thì có thể hiểu là bạn đã công nhận bạn trai bạn là cha của cháu bé. Như vậy, bạn trai
Vì nhiều lý do khác nhau mà các bên khi ly hôn, con được giao cho mẹ hoặc cho bố nuôi. Tuy nhiên, một thời gian sau, khi mà người không trực tiếp nuôi muốn được giành quyền nuôi con vì cho rằng mình đủ điều kiện để chăm sóc con tốt hơn. Nhưng để giành được quyền nuôi con bằng cách nào? Cơ quan nào giải quyết?
và không thích mang tiếng ở nhờ nhà vợ.Trước khi mẹ em mất có để lại cho em vàng và 02 xe máy, em đã dùng số tiền đó để mua 5m đất (tuy rằng số tiền đó chỉ đủ mua một nửa, anh ấy đã vay thêm cơ quan). Em tưởng rằng cứ sống thế là yên ổn ai ngờ đâu mẹ em vừa mất được ba tháng thì em nghe thấy mọi người nói anh ấy đã có con trai được 5 tháng rồi, em
Kính chào Luật Sư! Tôi lấy chồng được 4 năm nay, sinh được hai cháu một cháu 27 tháng và một cháu được 8 tháng. Tôi và chồng tôi đều muốn được ly hôn do không hợp nhau, anh ấy quá gia trưởng, chửi bới om xòm.. Tôi muốn hỏi liệu tôi có được quyền nuôi cả hai cháu không khi mà điều kiện kinh tế của tôi không được như chồng tôi ( chồng tôi thì vào
Luật BHXH quy định về BHXH một lần đối với người không đủ điều kiện hưởng lương hưu như sau: NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên được hưởng BHXH một lần khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Khoản 1, Điều 50 của luật này mà chưa đủ
Trong thời gian bảo lưu thời gian đóng BHXH mà không may người lao động từ trần, thì theo quy định của Luật BHXH người lao động sẽ được hưởng mai táng phí bằng 10 lần mức lương cơ sở. Đồng thời, thân nhân của người lao động cũng được hưởng tiền tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần tùy thuộc vào thời gian đóng BHXH của người lao động
Phạm tội đối với nhiều người
Do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà gây thương tích cho từ hai người trở lên hoặc dẫn đến làm chết hai người trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106 có khung hình phạt từ một năm đến ba năm tù, cũng là tội phạm ít nghiêm trọng.
Tất cả những người bị thương
bị kích động mạnh và người bị hại là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, còn thế nào là trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng lại phụ thuộc vào việc đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết nhiều người
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Người bị hại chết là do chính vết thương mà người phạm tội gây ra, nhưng người phạm tội hoàn toàn
tội này, tuy nhiên nếu chỉ có một người bị thương tật 31% đến 60%, nhưng còn gây thương tật cho nhiều người khác mà tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 31% đến 60% thì cũng phải coi là phạm tội đối với nhiều người và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 105, có như vậy mới thể hiện nguyên tắc công bằng khi xử