Kính gủi: Sở xây dựng TP Hồ Chí Minh. Xin hỏi quý sở nội dung như sau: Trường hợp 01 hộ gia đình xây dựng nhà ở không phép trên phạm vi đất đang sử dụng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất thì bị xử lý theo quy định tại văn bản nào? Có thể đồng thời xử lý theo quy định tại NĐ số 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 và NĐ số 23/2009/NĐ
Nghe nói khu vực tôi ở vừa có quy hoạch chi tiết 1/2000. Nhà tôi hoàn toàn nằm trong lộ giới đường là 20m(hiện nay chỉ 4m). Tôi định xin phép xây dựng lại vì nhà cũ xây đã xuống cấp nhưng quận bắt phải làm cam kết khi nào thực hiện quy hoạch giải tỏa không được đền bù mới cấp phép. Xin hỏi như vậy đúng hay sai, tại sao nhà tôi có giấy chứng nhận
từng trường hợp mà giải quyết như sau: a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo
Luật gia Phan Thùy Dung - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Chúng tôi trích dẫn một số quy định của pháp luật để anh chị tham khảo như sau:
Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân: "Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân: “1. Hoà giải viên lao động. 2. Toà án
. Trong trường hợp bên nhờ MTH chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên MTH thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ MTH chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật
Luật gia Nguyễn Mỹ Linh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Chúng tôi trích dẫn một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 để chị tham khảo, như sau:
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết
Luật gia Nguyễn Mỹ Linh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Chúng tôi trích dẫn một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) để chị tham khảo, như sau:
“Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân: Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều
chối nhận di sản.” (Điều 676)
Như vậy, do bố anh mất không để lại di chúc, di sản do bố anh để lại sẽ chia theo pháp luật. Phần di sản do bố anh để lại sẽ chia đều cho 4 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm có: mẹ anh, hai anh em anh và bà nội của anh.
Trong trường hợp bà nội của anh mất sau khi nhận thừa kế di sản từ bố của anh mà không để
Trong một lần đi biển, tàu cá của tôi gặp bão và bị đánh chìm. Sau 2 năm không có thông tin gì về tôi, mọi người trong gia đình nghĩ rằng tôi đã chết. Vợ tôi đã yêu cầu tòa án tuyên bố là tôi đã chết. Sau khi mãn tang cô ấy lập gia đình mới, tài sản của tôi đã được chia thừa kế theo pháp luật cho các con và cô ấy. Luật sư tư vấn, việc cô ấy kết
, việc chị của tôi đơn phương làm đơn để nhận một nửa diện tích đất qua sổ đỏ mà không có sự đồng ý của các thành viên khác có đúng pháp luật về thừa kế hay không? (Nguyễn Thị Ngân – Hải Phòng)
, do bố mẹ anh chết không để lại di chúc nên tài sản sẽ phân chia theo pháp luật. Theo quy định của điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS, các anh chị em trong gia đình anh sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được nhận thừa kế, con dâu và con rể không được hưởng thừa kế. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 676 BLDS, tài sản của bố mẹ anh sẽ được chia đều cho các con.
Bố mẹ tôi mất đi để lại mảnh đất 300m2, gia đình tôi có ba chị em. Tôi là chị cả, vì điều kiện kinh tế khó khăn nên tôi phải đi làm ăn xa, để lại mảnh đất cho người em út trong nom, quản lý. Tôi được biết người em út của tôi đã đứng tên hơn 18 năm rồi. Nay tôi muốn về quê sinh sống và muốn chia mảnh đất đó theo pháp luật vì bố mẹ tôi mất đi cũng
Luật gia Ngô Thị Phi - Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
Chúng tôi xin trích một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 631).
“Những người thừa kế theo
di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;” (điểm a khoản 1 Điều 643).
Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho
Tôi sinh năm 1986. Năm 2006 tôi được bà B (sinh năm 1960) nhận làm con nuôi. Sau đó mẹ nuôi tôi mất, có để lại một căn nhà, nhưng không để lại di chúc. Tôi yêu cầu chia một nửa căn nhà nhưng chị C (là con ruột của mẹ nuôi) không đồng ý với lý do tôi không có quyền thừa kế. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi có nên khởi kiện để đòi quyền lợi cho mình hay
Everest - trả lời: Theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, ngôi nhà mà ông Hoàng Văn Hảo và người em đang ở là tài sản chung của cha mẹ ông. Về nguyên tắc, cha và mẹ của ông có quyền ngang nhau đối với khối tài sản này (mỗi người hưởng 1/2 giá trị ngôi nhà). Năm 1978, mẹ ông mất, trường hợp không có di chúc, hai anh em ông có thể thỏa
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, căn nhà nói trên là tài sản chung của bố mẹ bạn Nguyễn Đức Long. Khi bố của bạn Long chết, phần tài sản do ông để lại sẽ trở thành di sản thừa kế.
Trước khi chết, bố của bạn không để lại di chúc, di sản thừa
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS) về trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì trong một số trường hợp, những người sau vẫn được hưởng một phần di sản thừa kế bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu không được
với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng". Cụ thể hơn, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3-1-2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp nhấn mạnh: "Kể từ sau ngày 1-1-2003 nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, thì theo quy định tại điểm b khoản 3