Hiện tại gia đình tôi đang tranh chấp về tài sản. Tôi muốn luật gia giải thích rõ những quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự. Cụ thể, như thế nào là người không có năng lực hành vi dân sự, như thế nào là năng lực bị hạn chế và bị mất năng lực hành vi dân sự?
/11/2013, cụ thể:
Theo điểm a khoản 2 Điều 5, người điều khiển xe ôtô và các loại xe tương tự xe ôtô thực hiện hành vi “chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc không có tín hiệu báo trước, trừ các vi phạm quy định tại điểm i khoản 4 Điều này”sẽ bị phạt tiền từ 300.000 đến 400.000 đồng
Tại điểm i khoản 4 còn quy định nếu không tuân thủ các quy
Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài là Khả năng của người nước ngoài do pháp luật quy định, bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Ngoại trừ hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông (Common Law) áp dụng luật nơi cư trú (Lex domicili), pháp luật của nhiều nước đều áp dụng pháp luật của nước mà người nước ngoài là
vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
– Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc
Anh Bình điều khiển xe ô tô về đến nhà vào lúc 22 giờ. Anh bấm còi xe liên tục để gọi người nhà mở cửa, ảnh hưởng đến sự yên tĩnh của khu dân cư. Anh Bình đã bị lập biên bản về hành vi trên. Anh Bình đề nghị cho biết, mức xử phạt đối với hành vi này là bao nhiêu?
Theo quy định tại Điều 637 Bộ luật Dân sự 2005 thì những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người
nhưng không chỉ đạo giải quyết những nội dung đơn nêu ra. Các hành vi sau cũng được coi là vi phạm pháp luật: Hủy đơn, tiêu hủy các tài liệu chứng cứ của đương sự, tiết lộ công việc điều tra gây khó khăn cho việc xử lý vụ việc khiếu nại, tố cáo... hoặc đối tượng bị khiếu nại, tố cáo đã được làm rõ nhưng không xử lý kỷ luật người này.
Cố ý không
và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất.".
người khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại
phường và Công an tỉnh, Công an Thành phố nơi bố mẹ em cư trú để thông báo về việc chồng em còn nợ tiền công ty, đề nghị các cơ quan này phối hợp thu hồi công nợ và truy tố nếu cần (chồng em có hộ khẩu thường trú ở Hà Nội, còn em vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú ở Hà Tĩnh cùng bố mẹ em). Trong khi đó, công ty đang nợ lương chồng em hơn 4 năm trời. Vì là
Năm 2011, gia đình tôi có mua 1 lô đất 5000m2 (trong đó có 300m2 thổ cư) trên đất có 1 nhà cấp 4 và kho xưởng (nhà, xưởng không làm thủ tục hoàn công, không có giấy phép xây dựng) tại Huyện D, có đầy đủ hợp đồng công chứng và đã giao đủ tiền cho bên bán (số tiền gần 2 tỷ đồng). Sau khi hợp đồng được ký kết và đã giao tiền xong, bên bán có thỏa
Việc Báo Nông nghiệp đã có bài viết sai sự thật , đưa tin không đúng gây ảnh hưởng uy tín và hình ảnh doanh nghiệp bạn thì đã vi phạm Luật báo chí và Nghị định 51/2002/NĐ-CP thì nếu có đủ chứng cứ và đã khiếu nại cơ quan quản lý có thẩm quyền mà có dấu hiệu là báo đã viết sai sự thật , xúc phạm danh dự nhân phẩm quyền lợi của cá nhân tổ chức thì
Hiện nay bà ngoại tôi có 2 lô đất và có tất cả là 06 người con (4 người đã định cư tại Úc từ lâu, còn lại 2 người con ở Việt Nam). Nay bà ngoại tôi muốn tặng cho dì tôi một lô đất có diện tích là 56m2. Tôi muốn hỏi nếu bà ngoại tôi làm hợp đồng tặng cho có cần có giấy từ chối nhận di sản của những người con còn lại không?
) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tại khu tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch; b) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tái định cư thì người tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định này
của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
được di tặng không phải là người được thừa kế di sản mà được hiểu là người có quyền tài sản từ khối di sản của người để lại di tặng. Như vậy, di tặng chỉ phát sinh từ căn cứ duy nhất – từ di chúc. Thực chất, phần di tặng đã được xác định theo sự định đoạt của người lập di chúc vẫn thuộc về người được di tặng; theo đó phần di sản sau khi đã trừ đi phần
người thừa kế theo pháp luật (như: Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, em ruột…) mà không nhất thiết phải nêu lý do, người lập di chúc có thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo luật không được hưởng di sản thừa kế của mình.
Tuy nhiên, do pháp luật không quy định cụ thể như thế nào là “truất” nên hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho người để lại di sản là rất cần thiết để xác định những người thừa kế theo pháp luật của người đó hoặc xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự. Cụ thể như sau:
1. Trường hợp thừa kế theo pháp luật
Hàng thừa kế và người thừa kế được quy định tại
Người để lại di sản là người có tài sản sau khi chết để lại cho người còn sống theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hay theo quy định của pháp luật.
Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không phân biệt bất cứ điều kiện nào (tuổi, mức độ năng lực hành vi dân sự…)
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành
1. Di chúc để lại tài sản cho con cái tại Việt Nam:
Theo quy định tại Điều 653 của Bộ Luật Dân sự hiện hành (BLDS), di chúc để lại di sản thừa kế cho con cái được coi là hợp pháp khi có đủ các nội dung sau:
– Ngày, tháng, năm lập di chúc;
– Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
– Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được