Theo quy định của Bộ luật Hình sự, thì tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 104 - Bộ luật Hình sự với 4 khung hình phạt, cụ thể:
Khoản 1: Bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Khoản 2: Bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm
Khoản 3: Bị phạt tù từ 5 năm
người bị thương có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên và có nhiều người khác bị thương tật dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 31% trở lên, thậm chí có trường hợp trên 61%. Vậy có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khoản 2 Điều 106 hay không? Do tội phạm mới được tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, nên
Phạm tội đối với một người
Do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà gây thương tích cho một người hoặc dẫn đến chết một người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 106 có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng và
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết nhiều người
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Người bị hại chết là do chính vết thương mà người phạm tội gây ra, nhưng người phạm tội hoàn toàn
61% trở lên là thương tật rất nặng, nên trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cũng nặng hơn so với trường hợp chỉ gây thương tật cho một người có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
Người bị hại trong trường hợp này cũng phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc thân thích của người phạm tội, nếu không
nhiều người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, nhưng chỉ có một người có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn những người khác chỉ bị thương tật dưới 31% thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 105.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có trường
phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Theo quy đinh của Bộ luật hình sự thì trường hợp phạm tội này là phạm tội ít nghiêm trọng nhưng thương tích của người bị hại là thương tích nặng nên khi xét xử loại tội này, Tòa án cần phân tích để người bị hại và những
Các dấu hiệu của tội phạm này cũng tương tự như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại điều 95, chỉ khác nhau ở ý thức chủ quan của tội phạm đối với hậu quả và hậu quả thực tế đã xảy ra.
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định rõ tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thì người phạm tội cố ý gây thương tích
cứu, nhưng trước khi đưa H lên bàn mổ, một y tá đã tiêm cho H một ống thuốc trợ lực nhưng lại nhầm thuốc nên chỉ sau khi rút kim ra H đã bị chết.
Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu dẫn đến chết nhiều
lý do công vụ của nạn nhân quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ trường hợp phạm tội này làm nạn nhân chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khỏe chứ không mong muốn cho nạn nhân bị chết. Nếu nạn nhân chết là ngoài sự mong muốn của người phạm tội.
Các trường hợp phạm tội trên, nếu thương tích của người bị hại
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình (điểm đ khoản 2 Điều 104)
Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự nhu trường hợp phạm tội quy định tại điểm o khoản 1 Điều 93Bộ luật hình sự về tội giết người, chỉ khác nhau ở chỗ trường hợp phạm tội này những người phạm tội
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình (điểm đ khoản 2 Điều 104)
Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự nhu trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 93Bộ luật hình sự về tội giết người, chỉ khác nhau ở chỗ trường hợp phạm tội chỉ gây thương tích hoặc
Văn phòng Luật sư nam Hà Nội - HSLAWS trả lời như sau:
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với trẻ em, phụ nữ đang mang thai, người già yếu, ốm đau hoặc không có khả năng tự vệ (điểm d khoản 2 Điều 104)
Đây là trường hợp phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng
Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân (điểm b khoản 1 Điều 104)
Cố tật là một tật trên cơ thể người không bao giờ chữa khỏi. Cố tật nhẹ là tật không chữa khỏi, nhưng tỷ lệ thương tích chỉ dưới 11%.
Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định gây cố tật nhẹ, trong khi đó thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người bị hại bị cố tật nặng, thậm chí rất
thiệt hại cho người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm hay không?
Về nguyên tắc theo quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999, các điều 609, 610 và 613 Bộ luật dân sự thì người chồng (hoặc người vợ) phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc Toà án có buộc người
1. Về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 23 của Bộ luật Hình sự thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi
Trong khi chơi bóng đá tôi có va chạm với người cùng chơi, người này về kéo theo một người nữa cầm dao Thái Lan đến đánh và gây thương tích cho tôi 4%. Tôi làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án nhưng cơ quan có thẩm quyền ở cấp huyện trả lời là chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chào bạn
Vấn đề bạn hỏi, Công ty Luật Tiền Phong xin được trả lời như sau:
1. Tội phạm
Bộ Luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung một số điều bởi Bộ Luật Hình sự năm 2009 quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
Đề nghị luật sư tư vấn cho tôi thế nào là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng?
Em có người bạn phạm vào tội đánh người, sự việc là như thế này: Vào ngày 10/01/2011 anh của bạn em(sn1990)có xảy ra mâu thuẫn với người A vào khỏang 19 giờ,nhưng sự việc đã được mọi người can ngăn nên không xảy ra vấn đề gì. Nhưng đến khỏang 23 giờ cùng ngày thì A có dẫn theo ba người là B C D vào xóm của bạn em để tìm anh của nó (có mang theo