bị cáo) về tội nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, Viện kiểm sát kháng nghị, người bị hại kháng cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm hoàn toàn có thể chấp nhận kháng nghị, kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm, xét xử bị cáo (các bị cáo) về tội danh nặng hơn, có thể tăng hình phạt nếu việc sửa đó là có căn cứ.
Ngược lại nếu không có căn cứ, Tòa án cấp
bị cáo) về tội nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, Viện kiểm sát kháng nghị, người bị hại kháng cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm hoàn toàn có thể chấp nhận kháng nghị, kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm, xét xử bị cáo (các bị cáo) về tội danh nặng hơn, có thể tăng hình phạt nếu việc sửa đó là có căn cứ.
Ngược lại nếu không có căn cứ, Tòa án cấp
Theo quy định tại điểm b khoản 1 và điểm b khoản 3 Điều 58 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia đình thì xúc phạm danh dự, nhân phẩm người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình bị phạt cảnh cáo hoặc
Theo quy định tại điểm b khoản 1 và điểm b khoản 3 Điều 58 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia đình thì xúc phạm danh dự, nhân phẩm người ngăn chặn bạo lực gia đình bị phạt cảnh cáo hoặc phạt
Theo quy định tại điểm b khoản 1 và điểm b khoản 3 Điều 58 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia đình thì xúc phạm danh dự, nhân phẩm người phát hiện bạo lực gia đình bị phạt cảnh cáo hoặc phạt
Luật gia Vũ Khánh Hoàng - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Chúng tôi trích dẫn một vài quy định của pháp luật có liên quan để chị tham khảo như sau:
- Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung 2009:“Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù
sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;
b) Khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp luật.
c) Khoản chi nếu có hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên (giá đã bao gồm thuế GTGT) khi thanh toán phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt…”.
Căn cứ
ông có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc bất cứ lúc nào ông muốn theo quy định trên.
Đồng thời, ông có quyền bán bất cứ tài sản nào của mình cho dù nó đã được chỉ định trong di chúc. Ông hoàn toàn có quyền bán căn nhà mà ông đã chỉ định cho người cháu. Bởi lẽ, di chúc chỉ phát sinh hiệu lực khi người lập di chúc chết.
Tài sản thuộc sở hữu chung của bố mẹ tôi. Khi bố mất không có để lại di chúc. Nay, mẹ tôi viết di chúc để lại toàn bộ tài sản đó cho em tôi như vậy có đúng không? Xin cám ơn. Gửi bởi: Trần Tuấn Dương
Bố mẹ tôi lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho em tôi và cậu ấy phải có nghĩa vụ chăm sóc đấng sinh thành tuổi cao sức yếu. Nay bố tôi vừa mất, em tôi không muốn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo di chúc. Chúng tôi phải làm gì để hủy di chúc? Mong được trả lời sớm.
Nếu căn nhà có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, và việc thừa kế là hợp pháp, thì bạn có thể: làm giấy khước từ quyền thừa kế, nhượng toàn bộ quyền thừa kế cho người em trong nước; hoặc làm giấy ủy quyền quản lý, sử dụng cho người em hoặc người khác.
Trường hợp muốn cùng em bán căn nhà đó, bạn có thể ủy quyền cho người em hoặc người khác
“Tôi mua cho người bạn gái tên N. ở Việt Nam một căn nhà ở Đà Lạt, để cô ấy đứng tên. Chúng tôi nhất trí với nhau là làm di chúc để lại toàn bộ căn nhà cho tổ chức từ thiện, và muốn ghi rõ mọi thay đổi trong di chúc phải có sự ưng thuận của tôi. Di chúc như vậy có đúng không?” (bạn đọc Moon Trần, Mỹ).
thuộc quyền sở hữu của ông được xác định là di sản thừa kế và phải được chia theo pháp luật. Căn cứ các chế định về thừa kế theo pháp luật, bà và ba người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, mỗi người được hưởng một kỷ phần bằng nhau đối với di sản ông nhà để lại. Như vậy, mặc dù bà vẫn sống tại ngôi nhà đó nhưng bà chỉ có quyền sở hữu và định đoạt
đảm bảo điều kiện pháp lý của di chúc, việc sửa đổi, bổ sung di chúc phải tuân thủ đầy đủ quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc và công chứng di chúc như đã nêu trên. (Khoản 3 Điều 48 Luật Công chứng quy định: "Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một
Bà ngoại tôi mất năm 2014. Nay ông ngoại tôi muốn lập di chúc chỉ để lại toàn bộ tài sản thừa kế cho một người con là mẹ tôi (ông tôi có 3 người con nhưng hai cậu không chăm lo cho ông). Tuy nhiên khi ông đến cơ quan công chứng để làm di chúc thì phòng công chứng lại yêu cầu phải có sự đồng ý và chữ ký của tất cả các con, như vậy có đúng hay
. Có một thư không ghi ngày tháng năm nhưng trong thư mẹ có viết mẹ để lại toàn bộ tài sản cho anh cả. Bức thư cũng không ký, chỉ là thư dặn dò thôi. Dù không có chữ ký nhưng chúng tôi đều biết đó là chữ viết của mẹ. Tôi muốn hỏi bức thư đó có được xem là di chúc không? Bởi vì xét về công lao đối với bố mẹ, anh đầu tôi là người có công nhất. Vụ
tôi soạn thảo từ năm 2005 và di chúc đó ghi toàn bộ tài sản, đát đai là để lại cho con đẻ của bà mà chồng tôi thì không được hưởng chút nào.Hiện nay bố chồng tôi đang bị liệt nằm đâu nằm đấy, trí nhớ không rõ ràng.Còn chồng tôi xem bản di chúc đã được photô thì nói rằng đó không phải là chữ kí của bố vì từ trước đến giờ bố không kí tên bao giờ mà đó
. Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để
di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Theo quy định nêu trên, di sản thờ cúng được xác định khi người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Nếu người để lại di sản không lập di chúc; hoặc có lập di chúc nhưng không để lại một
Tài sản thuộc sở hữu chung của bố mẹ tôi. Khi bố mất không có để lại di chúc. Nay, mẹ tôi viết di chúc để lại toàn bộ tài sản đó cho em tôi như vậy có đúng không? Xin cám ơn. Gửi bởi: Trần Tuấn Dương