Ngày 01/4/2006, TAND huyện X ra Quyết định số 15/QĐ-CNTT về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong vụ “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Nội dung Quyết định nêu rõ bà M phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà N số tiền là 79 triệu đồng. Trên cơ sở Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, bà N đã làm đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 5/5/2006, Thi hành án dân sự huyện X ra Quyết định số 153/QĐ-THA để tổ chức thi hành án đối với bà M. Ngày 7/6/2006, bà M đã trả bà N số tiền là 02 triệu đồng. Bà N đã làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án huyện X kê biên, bán đấu giá thửa đất số 138 tờ bản đồ số 10 với diện tích là 7.828m2 do vợ chồng bà M đang trực tiếp canh tác, sử dụng để trả số còn thiếu là 77 triệu đồng. Ngày 26/7/2006, Hội đồng định giá tiến hành định giá lô đất trên thì bà H (em ruột bà M) có đơn khiếu nại quyền sử dụng lô đất đang kê biên. Do đó, Hội đồng định giá ngưng tiến hành làm thủ tục thi hành án cho bà N để chờ kết quả giải quyết khiếu nại của UBND huyện X, xác định nguồn gốc đất trên là do ai trực tiêp khai phá, sử dụng. Ngày 20/10/2010, UBND huyện Đ đã ra quyết định số 3620/QĐ-UBND bác đơn của bà H về việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lý do là không đủ cơ sở pháp lý để cấp giấy. Nội dung quyết định cũng thể hiện diện tích đất trên có nguồn gốc là do vợ chồng bà M tự khai phá vào khoảng năm 1990 sử dụng vào mục đích trồng cây lâu năm. Đã nhiều lần, UBND xã mời vợ chồng bà M lên trao đổi, vận động để đăng ký quyền sử dụng đất trên nhằm đủ điều kiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà M, nhưng vợ chồng bà không công nhận diện tích đất đó là do vợ chồng bà tự khai phá và sử dụng. Do đó, UBND huyện đã thu hồi diện tích đất trên và giao cho UBND xã quản lý. Bà N đã nhiều lần làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ kê biên, phát mại lô đất trên để buộc bà M thi hành án cho bà, nhưng không thể thi hành được do bà M không có tài sản hoặc nguồn thu nhập nào khác ngoài diện tích đất nói trên để kê biên bảo đảm cho việc thi hành án. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng nói trên đều cho rằng mặc dù vợ chồng bà M sử dụng đất từ năm 1990 đến nay nhưng không có tên trong sổ địa chính và vợ chồng bà M cũng không công nhận phần đất trên do vợ chồng bà khai phá, sử dụng, đồng thời từ chối làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không có cơ sở để phát mại thi hành án. Tôi muốn hỏi, trong trường hợp nêu trên, phải làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà N.
Trong trường hợp này, nếu có căn cứ khẳng định diện tích đất nêu trên của vợ chồng bà M đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 do là: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đặc biệt ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Hoặc là hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất.
Diện tích đất nêu trên của gia đình bà M thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được chuyển quyền sử dụng đất, thì thuộc loại quyền sử dụng đất được kê biên, xử lý để thi hành án theo quy định tại quy định tại Điều 110 và Điều 111 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.