Quyền đơn phương chấm dứt HÐLÐ của người sử dụng lao động
Vấn đề bạn hỏi liên quan đến quyền đơn phương chấm dứt HÐLÐ của người sử dụng lao động và trách nhiệm của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt HÐLÐ trái pháp luật.
Ðiều 38, Bộ luật Lao động quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động như sau:
Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt HÐLÐ trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo HÐLÐ;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo HÐLÐ không xác định thời hạn, đã điều trị 6 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo HÐLÐ xác định thời hạn và quá nửa thời hạn HÐLÐ đối với người làm theo HÐLÐ theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết HÐLÐ;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Ðiều 33 của Bộ luật này.
Nếu quyết định chấm dứt HÐLÐ của công ty không căn cứ theo những quy định trên, quyết định đó hoàn toàn trái pháp luật.
Ðiều 42, Bộ luật Lao động quy định nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt HÐLÐ trái pháp luật như sau:
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo HÐLÐ đã giao kết và phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 2 tháng tiền lương theo HÐLÐ.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại Khoản 1 Ðiều này, người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại Khoản 1 Ðiều này và trợ cấp thôi việc theo quy định, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương theo HÐLÐ để chấm dứt HÐLÐ.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong HÐLÐ mà người lao động vẫn muốn làm việc, ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại Khoản 1 Ðiều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung HÐLÐ.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước, phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
Ngoài ra, công ty không tham gia BHXH, BHTN cho người lao động có HÐLÐ có thời hạn 12 tháng cũng đã vi phạm các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006.
Ðể được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể khởi kiện ra tòa án nơi công ty có trụ sở (Ðiều 201, Bộ luật Lao động) hoặc khởi kiện tại tòa án nơi mình cư trú, làm việc (Ðiểm đ, Khoản 1, Ðiều 36, Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành).
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.